Bữa đó lính kéo lên, con bé đang bồng em chơi ngoài ngõ ngó thấy tụi lính có cả ta cả Tây, tưởng như mọi khi tụi lính đi bắt bớ, nó hết hồn hết vía chạy vào nhà, kéo nhanh cửa xuống rồi đứng trong cửa, nhòm ra khe phên liếp thậm thụt. Không biết má có gặp mấy anh, mấy cậu chưa? Nhỡ bọn chúng kéo ra phía sông thì chết. Con bé run cầm cập. Nhưng nó đang bồng em, làm sao chạy nhanh ra phía sông mà báo cho má? Nó tự trấn an, chắc chó sủa nhiều má cũng sẽ biết.
Kỳ Trà nằm giữa vùng núi Kỳ Yên và Tam Kỳ. Từ khi có chiến sự, Kỳ Trà trở thành vùng tranh chấp. Mỗi sớm, sau mấy đợt dội pháo thì tụi Mĩ ngụy ào ạt kéo quân lên. Bọn chúng đóng tại sân vườn chùa giữa xóm Làng. Rảnh rỗi chúng bủa ra xóm Sông, lên xóm Núi. Lưng chiều, chúng lục tục kéo nhau rút về. Kỳ Trà trở lại yên bình.
Con sông Thất Lục xanh ngăn ngắt chảy từ vùng núi Kỳ Yên xuống, uốn lượn mềm mại trước làng. Từ xóm rừng, xóm núi tới xóm sông đều nằm dựa lưng vào núi, nhìn ra bãi nà Làng dài rộng. Xa hơn là hàng tre chống càn. Ngoài cùng là con sông Thất Lục ấy. Bên kia sông là núi Ngấn, là căn cứ cách mạng trọng điểm của khu vực phía Nam Tam Kỳ. Triền núi ấy có mấy vạt tranh xanh mượt. Cứ mỗi mùa tháng sáu, dân Kỳ Trà rủ nhau qua cắt phơi thành từng lan dài. Một trưa thiệt nắng, mấy người đàn ông vác theo đòn gánh bằng khúc tre to, cuộn bó những bó tranh khô gánh về. Thời gian gần đây, rẫy tranh tan hoang. Không có pháo từ trảng Bà Mù dưới Chu Lai dội lên thì pháo từ sân bay Kỳ Nghĩa dội tới. Đâu chỉ rẫy tranh mà bãi bắp, bãi đậu dưới nà Làng, cả cái vùng Kỳ Trà này, chỗ nào cũng lồi lõm, hục hang của bom, của pháo, của những cái mả cũ có mới có, mọc lên đầy rẫy như nấm. Dân làng tứ tán khắp nơi. Số bị địch bắt xuống khu dồn Tứ Hiệp, số theo cách mạng lên Kỳ Yên. Dăm nhà ở lại trụ bám. Họ đều có con theo cách mạng. Hoặc là du kích địa phương, hoặc đi tỉnh đội.
Nắng chiều hoang hoải rụng. Mấy ụn khói ai đốt ngoài đồng cuộn bay lên xơ xác. Má biểu con bé ở nhà giữ thằng út, còn mình bưng thau đồ ra phía sông. Dưới đáy thau đồ có cái mo cau gấp đôi, bên trong mớ khoai và mấy trái bắp má nấu khi xế còn nóng hổi. Má cắp nón te te xuống ngõ. Má đi nhanh xấp xãi. Băng ngang qua khỏi nà Làng bằng con đường mòn sâu hoắm ấy là tới bờ tre chống càn. Giữa bờ tre có con đường luồng xuống bến sông. Ngày đôi lần má ra phía bờ sông. Khi thì giặt đồ, khi thì quảy đôi thùng gánh nước, trong đó có mớ cơm, mớ khoai, mấy trái bắp luộc.
Thời gian chưa sôi nồi cơm, má bưng thau đồ trở về. Phía cuối làng trong nắng chiều đổ vội, lố nhố một toán lính có Tây có ta lục tục kéo lên. Trời đất. Tim má đập thình thịch. Chừ mà quay lại ra sông thể nào tụi hắn cũng nghi ngờ mà bắn ngay. Không quay lại làm sao báo cho mấy đứa bên kia sông biết được? Má bước lần khâng nghĩ cách. Rồi má hét to đánh động.
– Bé… Bé ơi… Coi em đâu rồi. Đừng có ham chơi mà bỏ em nghe chưa? Bé ơi… Mấy chú lên đó kìa. Ham chơi mấy chú bắt em chừ đó…
Con bé nghe má kêu to liền bồng em chạy ra ngõ. Ngó thấy tụi lính ầm ầm kéo lên, thằng út hoảng hồn khóc ré. Má chạy nhanh vào ngõ, để thau đồ xuống đất rồi đỡ lấy con. Mấy chú đi phần mấy chú, có chi đâu mà sợ, mà khóc… Má dỗ con mà tiếng má như cả làng cũng nghe thấy. Rồi má kéo cả hai con vào nhà.
Tấm liếp che cửa hạ xuống, má thở phào, dặn nay có đi đâu nhớ thấy bọn lính ở xa là né đường khác, kẻo bọn lính bắt tra hỏi. Mà lỡ có bị bắt lại hỏi thì nói tui hông biết. Nghe chưa! Nhà mình có mấy người? Má hỏi vặn lại.
– Có ba mẹ con thôi. Cha với anh bị pháo chết rồi.
Con bé trả lời rành rọt.
– Nhớ đó. Khai bậy bạ chết cả nhà nghe con.
Nói rồi má cũng lại chỗ khe liếp dòm ra. Tụi lính đi tới đâu chó sủa inh ỏi tới đó. Hình như chúng lại đóng quân ngoài chùa.
Lạ kì, nửa chiều mà lính đi càn. Hình như thằng út Xuyến có thóc mách chi rồi. Hôm qua hắn dạo khắp làng trên xóm dưới hỏi mua heo, nhưng mắt cứ láo liên ngó ngang. Chắc cái tin tối nay mấy ông tỉnh đội về họp chuẩn bị đánh xuống Tam Kỳ bị lộ. Bọn lính đi phục kích. Không càn lên bằng máy bay mà đi bộ. Má sai con bé xuống nhen lửa, mình thì bồng cu út mà ruột rối bời bời. Lúc chiều mấy đứa bơi từ bên kia sông sang có nói tối nay anh Ba, thằng hai với mấy người ngoài tỉnh đội về, mượn nhà má họp để nắm tình hình đặng chuẩn bị đánh. Chừ bọn lính lên nằm phục đây, về là về sao được. Loạng quạng không chỉ con mình, anh mình bị bắn mà mấy ông tỉnh đội cũng bị liên lụy lây.
Lòng má chộn rộn, đứng ngồi không yên. Má bưng cái gáo bành, cắp nách thằng út lội bộ sang nhà bà Hai vờ mượn gạo. Dọc xóm, bọn lính bủa đi khi nào, mỗi gốc mít hai tên ngồi tựa lưng. Chúng bật lửa châm thuốc. Mấy điếu thuốc màu đà đà to bằng ngón tay, phả khói mùi thơm ngọt. Thấy má đi te te điệu bộ sợ sệt lấm lét, chúng cười lộ hàm răng trắng toát. Má liếc ngang thấy nhà nào cũng có vài ba lính, cả Mĩ lẫn ngụy, đi ra đi vào xì xào.
Tay bưng bành gạo, tay bồng con, má đi sấp ngửa về mà đầu óc rối tinh. Vừa bước qua đà cửa, má giật thót mình. Trong gian nhà chập choạng tối, út Xuyến con bà Bằng ngồi đó cười khì khì, thêm hai tên Mĩ ngồi ngay bộ phản giữa nhà. Má chết sững hỏi mấy ông làm chi nhà tui, nhà tui đàn bà, con nít, có đánh, có bắn cộng sản thì ra ngoài núi ngoài vườn chùa nứ. Cộng sản đâu đây mà mấy ông ở cho con nít sợ. Út Xuyến dỗ ngọt nói mấy nay lính quốc gia đánh quá, cộng sản gần thua rồi. Sợ tối nay cộng sản đói xuống nhà dân cướp nên chính quyền mới cử lính lên bảo vệ dân. Má cự nự, nhà tui nghèo, gạo còn không có, đi mượn đỡ ăn qua ngày đây, có chi đâu mà cướp với bóc. Mấy ông làm ơn đi cho.
Tên Mĩ trắng đứng lên nói lào xào thứ gì đó với tay Xuyến. Xuyến quay sang đanh giọng, nói tụi lính bảo không đi đâu hết. Khôn hồn thì im, la to lên chúng bắn bỏ.
Thằng cu út sợ quá dụi đầu vào ngực má. Con bé đứng sau cũng túm lấy ống quần má lấm lét nhìn. Biết tình thế không đuổi được, má đành bồng con xuống bếp. Trời càng ngày càng tối, má gợt than vần nồi cơm sang một bên. Bắc nồi cá kho lên hâm nóng lại. Một tay cắp nách đứa nhỏ, một tay chụm lửa. Phía trên nhà sáu con mắt hau háu của bọn địch quan sát từng cử động của má.
Út Xuyến mỉa mai, nói dì chịu khổ chi không biết, bảo anh ba Thận với thằng Phục về làm lính cho quốc gia như hắn có khỏe hơn không. Vừa đỡ công việc nhà, vừa có lương. Nói dạo trước nhập ngũ có gặp anh Thận trong tỉnh đội. Ảnh gầy còm à. Cộng sản ăn chi đâu mà mập hả dì. Ở trên rừng đói lắm. Bảy thằng bu không gãy cái tàu đu đủ. Má biết tỏng kế thằng chiêu hồi. Chính hắn chỉ điểm tụi lính mới lên đêm ni. Chính hắn chỉ điểm nên làng ni biết bao nhiêu người chết, bao nhiêu người bị bắt đi tra tấn, người về bầm mình, người chết mất xác. Cả anh Hai, anh Sáu bị phục kích bắn chết cũng do thằng ni. Quân khốn nạn. Má hận không băm hắn ra được.
Má gượng cười kêu cậu nhầm với ai, chồng con tui, mấy anh tui bị pháo dội lên, chết chôn sau hè, cỏ lên xanh um rồi, đâu ra Thận với Phục. Cậu không tin ra mà coi cả dây mả còn sờ ra đó. Cậu đừng nói rứa mấy ông cán bộ lên bắt bớ tội má con tui.
Bưng tô cơm chổng chểnh khoai có để lên trên khúc cá trê kho nghệ vàng đưa cho con gái. Má xúc thêm tô nữa, vừa thổi, vừa đút cho thằng con út. Ngoài trời bóng tối đổ nhanh, má vừa bồng con vừa đi thắp đèn. Cái đèn dầu hột vịt bể mất cái bóng che gió phía trên, má vặn tiêm đèn cao lên cho ngọn đèn sáng hơn. Rồi đặt thằng út ngồi hẳn lên phía bàn, má trườn người đẩy tấm phên liếp, lấy cây đòn chống cao thành cái cửa sổ. Gió ngoài nà Làng thổi vào mát rượi làm ngọn đèn chao qua chao lại.
– Mở cửa chi cho muỗi vào dì ơi!
Út Xuyến rọi đôi mắt cú của hắn theo từng cử động của má. Má nói trong nhà nóng như hầm, không mở cửa thằng nhỏ nóng quấy khóc không ăn cơm. Nói rồi má lôi cái ghế băng, ngồi vừa thổi vừa đút cơm cho con. Căn nhà nhỏ trống hoác. Ngoài cái bàn gỗ nhỏ nhỏ để chỗ cửa sổ này thì chỉ còn cái chõng tre giữa nhà, cái thùng gỗ nhỏ để dọc bên hông. Từ ngoài sông nhìn vào theo cánh cửa sổ mở, ai đi lại, ngồi đâu đều thấy rõ mồn một. Má ngồi đó, chỗ cái bàn sát cửa, tay dẻ từng tí xíu thịt cá, soi dưới đèn như sợ xương. Rồi dằm thật kĩ cả cá vào cơm, thổi thiệt nguội mới đút cho cậu. Tất cả diễn ra trong im lặng. Làng trên xóm dưới chừng như cũng đã lên đèn. Không một tiếng chó sủa ma.
Má phải thắp đèn ở đây, ngay chỗ này thì mấy cậu, mấy dì bên kia sông mới thấy tín hiệu. Cứ đèn sáng thì chớ có mò về. Thể nào cũng có chuyện. Đó là ám hiệu giữa má và mấy cậu. Chừ mà đèn tắt thì mấy cậu bơi sang sông, lên làng thế nào cũng dính phục kích. Bởi thế nên má cứ nhằm nhây, đút từng muỗng cơm cầm chừng. Út Xuyến, tay chiêu hồi cáo già, hắn hình như phát hiện cái động tác đút cơm cho con cầm chừng của má. Hắn trở ra hối má cho con ăn nhanh còn ngủ. Thời buổi này dầu hỏa lên giá, thắp đèn cho con ăn như dì có mà tốn cả đồng bạc. Má cười nói thằng út nhỏ quá, phải lựa xương kĩ chứ ăn mau sợ mắc xương. Con cái mình đẻ ra mình quý chứ cậu. Người dưng họ còn thương còn quý nhau, huống chi con mình. Có bọn lòng lang dạ sói mới hại đồng bào đồng bọn mình thôi cậu ơi.
Út Xuyến sầm mặt, hắn biết má đang chửi khéo hắn nhưng hắn chẳng làm gì được. Quay sang nói lạo xạo với hai tên lính Tây rồi hắn trở giọng hối má cho con ăn nhanh đặng tắt đèn. Mấy ông lính Tây bảo phải tắt đèn, đóng cửa. Không lôi thôi. Lôi thôi ổng bắn. Má biết tình thế không ổn, vả lại cơm trong tô cũng không còn. Má đứng dậy bồng con xuống nhà dưới mà cứ nhìn chừng sợ ngọn đèn tắt đi.
Vừa quay lên lại thì gã Xuyến đã thổi tắt phựt ngọn đèn dầu. Má giật bắn lên vội bật diêm thắp lại.
– Ăn uống xong rồi thắp đèn chi nữa.
Gã Xuyến trợn mắt lên quát.
– Con tui còn nhỏ, mới tối mà tắt đèn hắn khóc quấy. Mấy ông thông cảm cho.
Má cự nự lại. Như đoán được ý đồ má, út Xuyến lại trườn người đưa tay cầm cái đèn. Má nhanh tay giật lại. Một tay bồng con, một tay giằng co với tên ác ôn. Ngọn đèn bị kéo tới kéo lui nên lại tắt phụt. Má tru tréo lên, kêu mấy ông đừng có ác, ác vừa phải. Để con tui ngủ rồi mấy ông tắt hay đập luôn cũng được. Mới ăn xong chừ tắt đèn cho con tui khóc cho lòi rún hay chi. Vừa nói xong thì thằng út khóc thét lên.
– Đó mấy ông thấy chưa. Mới tối bắt con người ta đi ngủ. Con nít chứ phải người lớn đâu.
Tiếng tru tréo của người đàn bà có con mọn, tiếng khóc thét của đứa trẻ làm náo động cả xóm. Xuyến thả cái đèn ra, má vơ diêm quẹt, bật lẹt xẹt châm lại đèn sáng lên. Bọn Tây thấy tình cảnh ồn ào cũng nóng ruột, hình như sợ đánh động nên nói rì rầm gì với nhau, út Xuyến thôi không thổi đèn nữa. Hắn bảo má lo mà dỗ con cho mau nín, rồi ngồi đó trừng trừng cặp mắt cú vọ nhìn.
Hai tên lính Tây ôm hai cây súng M16 ra ngồi sát bên đà cửa. Út Xuyến vẫn ngồi trên thùng lúa. Má bồng thằng út đi đi, lại lại giữa nhà, thỉnh thoảng thằng út lại khóc thét lên, không chịu nín.
Đêm đổ yên lặng xuống Kỳ Trà một cách bất thường. Chẳng nhà nào có tiếng hát ru con, chẳng có tiếng con nít chạy lung giỡn ở khắp xóm trên, chơi mấy trò trốn tìm mỗi đêm trăng. Trăng đã lên khỏi ngọn tre ngoài bờ tre chống càn. Trăng tuôn ánh vàng xuống cánh đồng nà Làng trùng trùng mượt. Từ trong xóm ngó ra, nà Làng hiện lên dưới trăng như một bức tranh thủy mặc. Mấy vạt bắp đương cờ bằng tắp, mấy vạt đậu nhỏ nhỏ cũng vàng nhờ nhợ dưới trăng, con đường nhỏ sâu hoắm dẫn ra phía bờ sông Thất Lục quanh co. Hàng tre dọc bên sông giữ đất cho làng như cũng mệt mỏi bởi đạn pháo ban ngày, giờ đứng lặng im nghỉ ngơi, nghe sông thở. Trăng đổ sáng xuống con nước lấp lánh. Nước êm đềm trôi miệt mài, như con người làng nơi đây miệt mài sống, miệt mài bám làng, bám đất, bám quê hương dù cho bao lần giặc đưa tàu rọ lên xúc xuống khu dồn Tứ Hiệp, rồi họ cũng tìm đường chạy về mà trụ bám. Đâu phải chỉ giữ những nếp nhà tranh, cánh đồng, dòng sông, mồ mả cha ông. Mà hơn hết, trụ bám để sáng sáng, chiều chiều còn có người đùm cơm, đùm khoai cho bộ đội bên kia sông, trên núi Ngấn; có người dòm dòm, ngó ngó đặng đưa tin giặc càn lên, lính đi mai phục bao nhiêu người, ở đâu, làm chi…
Con bé nằm nghiêng đầu vào phía phên liếp ngủ ngon. Thằng út cũng bắt đầu ngủ gà gật trên vai má. Má để con xuống giường rồi đi về phía nhà dưới lấy lên con dao phay đặt dưới gối. Nói như thanh minh rằng thằng nhỏ ngủ hay giật mình nên phải để vậy cho nó ngủ ngon giấc. Hai tên lính tây ôm súng ra ngồi thu lu bên trong cửa chính. Út Xuyết cũng thu chân ngồi thù lù trên thùng lúa, dựa mình vào phên nan, tay lăm lăm cây súng cạc bin. Má hạ tấm cửa liếp xuống rồi thổi đèn.
Đêm khuya, tiếng thở của hai đứa con nhè nhẹ. Lạy trời đêm nay con mèo hoang đừng kêu meo…meo, đừng cào vào phía cửa bếp như mọi khi. Thi thoảng má đập cái quạt mo đuổi muỗi phành phạch. Hết trở mình bên này lại trở mình bên kia. Đêm bình yên bên ngoài cánh cửa. Tiếng con chim cú muỗi từng hồi vang vang va vào sự tĩnh mịch. Cái giống loài lạ kì, ban ngày nằm đâu dưới những gốc tre, nền rừng, đến đêm mới chịu bay đi kiếm ăn. Và cũng lạ kì chỉ có đêm trăng thiệt đẹp nó mới kêu, tiếng kêu vang vang thanh bâng. Má lặng nghe rõ mồn một từng tiếng chim tuồn vào đêm sáng, thi thoảng có tiếng chóp chép của gã lính Tây. Hình như gã đang nhai kẹo cao su. Rồi tiếng ngáy pho pho của tay út Xuyến trên phía thùng lúa. Ánh trăng vỡ vụn theo khe liếp đổ xuống gian phòng. Má cố căng mắt nhìn. Hai gã Tây vẫn ngồi lù lù phía bên trong cửa.
Tay má lần tìm con dao dưới gối, con dao phay vẫn còn nguyên. Má không sợ tụi lính làm gì má, hơn bốn mươi tuổi, có tới ba mặt con rồi, đã bao lần bị tra tấn, bị tụi lính đánh ngay cả hồi còn mang bụng bầu thằng út sáu tháng, có gì làm má sợ nữa chứ. Cái điều má lo nhất là lỡ mấy cậu về trong đêm. Dù vẫn biết tín hiệu má đã truyền đi, nhưng nhỡ đâu… Rồi má lại nhìn qua thằng út Xuyến. Thằng ngụy quân chiêu hồi, kẻ thù giết chết hai anh trai, hại không biết bao nhiêu người trong làng, đang ở trong nhà má. Má muốn cầm dao lại lụi cho hắn một phát để trả thù cho những người bị chết, bị khổ vì hắn. Má lần tay nắm chặt cán dao. Nhưng rồi con bé trở mình, gãi sàn sạt. Hình như con bé bị muỗi cắn. Má buông cây dao ra, lần mò cái quạt mo, quạt nhẹ nhẹ cho hai con. Má không muốn nghĩ thêm nữa chỉ mong đêm trôi qua thật nhanh.
Gà gáy nhì, má đã gỡ nhẹ thằng út ra, rồi chèn mền lại cho hai con, má cột lại tóc và lục đục xuống nhà dưới nhen lửa. Thấy má dậy, tụi lính cũng lọt tọt dậy, kéo nhau lủi thủi tự mở cửa mà đi ra. Út Xuyến cung cúc đầu theo sau ngật ngưỡng. Cả bọn kéo nhau thậm thụi đi trong mửng mưng sáng. Tiếng chó sủa rân làng trên xóm dưới. Hình như tụi lính báo hiệu nhau đều rút.
Mặt trời dọi lên những tia nắng đầu ngày, tụi lính kéo nhau thu quân về Tam Kỳ sau một đêm dài phục kích chẳng thu lượm được gì. Bà con làng trên, xóm dưới bủa ra đường, cười nói râm rang, kể chuyện đêm qua tụi lính trốn trong nhà. Buồn cười nhất là mấy tay ngụy, có thằng chui dưới gầm bàn, gầm giường, đi phục kích mà ngồi run cả đêm.
Má bồng thằng út, dẫn theo con bé đi qua nhà bà Hai. Vừa mượn trắp dầu cù là của bà Hai để xoa lên vết bầm tím trên đùi của thằng con út, vừa cười nói trong xót xa
– Tối quá thằng út “bị” làm lính truyền tin, một mình hắn là người có công nhất…
Cả xóm chưa hiểu đầu đuôi câu chuyện thì nghe có tiếng cắc… bụp… từ phía trảng Bà Mù. Đó là âm thanh của pháo Mỹ. Mọi người lại hối hả dắt nhau chạy ra hầm trú ẩn. Cả Kỳ Trà lại ầm ang trong khói lửa pháo bom…
– Thanh Tuân –
GÓP Ý